Ảnh hưởng của đạo luật thuế tối thiểu toàn cầu với Việt Nam?

Cùng với sự mở rộng thương mại đầu tư toàn cầu và sự phát triển của công nghệ thông tin, các hoạt động đầu tư kinh doanh ngày càng trở nên phức tạp, trong nhiều trường hợp đã vượt ra khỏi phạm vi các quy định quản lý hiện hành. Các doanh nghiệp, đặc biệt là các tập đoàn đa quốc gia, đã tận dụng các kẽ hở quản lý để tránh các nghĩa vụ thuế thông qua những hành vi gây xói mòn cơ sở tính thuế hoặc chuyển dịch lợi nhuận từ nơi có thuế suất cao sang nơi có thuế suất thấp.

1. Vấn đề đặt ra

  • Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, nhiều nước đã tiến hành giảm thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN). Điều này dẫn đến việc các công ty đa quốc gia (MNE) có thể chuyển một phần hoạt động kinh doanh qua các nước có mức thuế suất thấp hoặc ngay cả dù không trực tiếp kinh doanh ở các nước có thuế suất ưu đãi, song đã sử dụng các biện pháp kế toán để chuyển phần lợi nhuận do kinh doanh ở nước có thuế suất cao sang chi nhánh của mình ở nước có thuế suất thấp để hưởng mức thuế ưu đãi.
  • Xét về mặc nguyên tắc hoạt động, thì doanh nghiệp luôn muốn tối ưu hóa lợi nhuận và việc tối thiểu hóa chi phí thuế là một trong những nhiệm vụ của doanh nghiệp. Xét ở góc độ Chính phủ thì mong muốn thu được thuế ở mức cao nhất, bổ sung ngân sách, duy trì bộ máy và phân bổ lại đồng đều hơn cho các nguồn lực khác của xã hội. Xét ở góc độ toàn cầu thì các nước đang phát triển cố gắng ưu đãi thuế để thu hút các doanh nghiệp FDI tham gia đầu tư và như vậy sẽ giúp họ nhanh chóng bắt kịp xu hướng phát triển chung của nhân loại và điều này lại mâu thuẫn với quyền lợi của các nước phát triển.
  • Do đó, việc xây dựng “Chính sách thuế tối thiểu toàn cầu” được dẫn dắt bởi các quốc gia phát triển hàng đầu nhằm tối ưu số thuế mà họ có thể thu được, hạn chế các công ty đa quốc gia chuyển giá qua các thiên đường thuế, duy trì sự thịnh vượng của quốc gia của họ. Nhưng điều này không có nghĩa là các nước đang phát triển tham gia sẽ có lợi, vì họ sẽ là những quốc gia bị thiệt hại nhiều hơn khi đạo luật này được thông qua.

2. Quá trình và nội dung chính của đạo luật thuế tối thiểu toàn cầu

Tháng 9/2013, Hội nghị Thượng đỉnh G20 diễn ra tại St. Petersburg, các nguyên thủ quốc gia G20 đã thông qua Dự án BEPS nhằm liên kết các nỗ lực toàn cầu chống lại các hành vi BEPS và giao cho OECD xây dựng chương trình hành động cụ thể.  Tháng 11/2015, tại Hội nghị Thượng đỉnh G20 diễn ra tại Antalya-Thổ Nhĩ Kỳ, các nguyên thủ quốc gia đã thông qua gói kế hoạch triển khai 15 hành động cụ thể của Dự án BEPS do OECD đề xuất. Đây là những hành động được đề xuất nhằm giải quyết các vấn đề có thể xảy ra các hành vi BEPS như: Các vấn đề liên quan đến nền kinh tế số, quản lý việc doanh nghiệp thành lập các chi nhánh ở nước ngoài nhằm mục tiêu tránh thuế, phối hợp chia sẻ thông tin thuế, quản lý việc hình thành cơ sở thường trú… Việc thực hiện các hành động này đòi hỏi sự phối hợp ở nhiều mức độ khác nhau giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn cầu nhằm đối phó một cách hiệu quả với các hành vi BEPS.

Từ năm 2017, Việt Nam đã tham gia là thành viên thứ 100 cùng hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển dịch lợi nhuận (BEPS) với mục tiêu cải cách hệ thống thuế theo hướng chống xói mòn nguồn thu, chống trốn thuế toàn cầu. Đồng thời, lành mạnh hóa môi trường đầu tư, khơi thông các nguồn thu tiềm năng trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế, đầu tư toàn cầu và đặc biệt từ sự phát triển mạnh mẽ nền kinh tế số toàn thế giới.

Ngày 8/10/2021, thỏa thuận lịch sử về cải cách thuế toàn cầu được về khung giải pháp “Hai trụ cột” nhận được sự đồng thuận của 139 nước thành viên, chiếm đến 90% GDP toàn cầu tại Diễn đàn hợp tác toàn cầu về BEPS mà Việt Nam là một thành viên.

Trong đó, trụ cột 2 đó là thống nhất thiết lập một mức thuế tối thiểu áp dụng cho lợi nhuận xuyên biên giới của các công ty đa quốc gia nhằm hạn chế cạnh tranh không lành mạnh về thuế, dự kiến sẽ áp dụng cuối năm 2023:

  • Thứ nhất, chính sách thuế tối thiểu toàn cầu cho phép các quốc gia đánh thuế lợi nhuận từ hàng hóa và dịch vụ của các tập đoàn đa quốc gia có doanh thu hơn 20 tỷ EUR/năm (khoảng 20,7 tỷ USD/năm) và có tỉ suất lợi nhuận trước thuế/tổng doanh thu từ 10% trở lên (mức giới hạn doanh thu có thể giảm xuống còn 10 tỷ EUR/năm sau 7 năm kể từ khi BEPS có hiệu lực 1/7/2018, tức 1/7/2025). Theo ước tính, có khoảng 100 tập đoàn, công ty lớn trên thế giới chịu sự điều chỉnh của trụ cột này.
  • Thứ hai, quy định mức thuế tối thiểu toàn cầu là 15% đối với các công ty đa quốc gia có tổng doanh thu từ 750 triệu EUR (hay 800 triệu USD) trở lên trong 2 năm của 4 năm liền kề gần nhất, với ước tính thu được khoảng 150 tỷ USD doanh thu thuế toàn cầu hằng năm.

3. Mục tiêu của đạo luật thuế tối thiểu toàn cầu

  • Thuế tối thiểu toàn cầu được xây dựng nhằm ngăn chặn “cuộc đua xuống đáy” về thuế suất ưu đãi giữa các quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia mới nổi và đang phát triển, chịu sức ép lớn trong việc cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài thông qua các ưu đãi về thuế do đây là một trong những yếu tố quan trọng nhất của các quốc gia này để thu hút FDI của các công ty, tập đoàn đa quốc gia.
  • Với quy định về thuế tối thiểu toàn cầu, một tập đoàn, công ty đa quốc gia sẽ bị đánh thuế 15% đối với các khoản lợi nhuận tạo ra tại các quốc gia (có thuế suất bằng 0% hoặc thuế suất thấp thông qua cơ chế đánh thuế bổ sung, từ chối khấu trừ thuế hoặc thuế khấu trừ tại nguồn) với mức thuế suất hiệu dụng (Effective Tax Rate – ETR) tối thiểu.
  • Trong kỳ tính thuế, nếu ETR của một công ty con thấp hơn thuế suất tối thiểu được thỏa thuận trên toàn cầu thì công ty mẹ phải trả “thuế bổ sung” trên phần thu nhập tương ứng trong thu nhập của công ty con bị đánh thuế thấp hơn mức thuế tối thiểu toàn cầu cho quốc gia nơi đặt trụ sở (thường được gọi là quốc gia mẹ hoặc quốc gia cư trú).
  • Trong một số trường hợp nhất định, khoản thuế bổ sung sẽ chuyển sang một hoặc nhiều thành viên khác của tập đoàn, công ty đa quốc gia. Do đó, thuế tối thiểu toàn cầu sẽ góp phần tạo ra một hệ thống thuế có sự phối hợp của nhiều quốc gia nhằm đảm bảo các công ty đa quốc gia lớn phải trả mức thuế tối thiểu đối với thu nhập phát sinh tại mỗi nước/khu vực mà công ty, tập đoàn đó có hoạt động.
  • Đối với các tập đoàn, công ty đa quốc gia có doanh thu hằng năm thấp hơn mức 750 triệu EUR, các nước vẫn có thể lựa chọn áp dụng thuế tối thiểu nếu trụ sở chính của công ty, tập đoàn đặt tại quốc gia đó. Thuế tối thiểu toàn cầu sẽ không áp dụng cho các quỹ hưu trí, quỹ đầu tư, các tổ chức phi lợi nhuận, hoặc thu nhập từ vận chuyển quốc tế… Thuế tối thiểu toàn cầu dự kiến sẽ có hiệu lực từ năm 2023.

4. Thực trạng và tác động tới Việt Nam

Thực trạng

  • Hiện nay, Việt Nam đã và đang tuân thủ rất nhiều hiệp định thuế song phương và đa phương, trong đó đã ký 83 hiệp định thương mại với các nước và tổ chức trên thế giới. Việt Nam mong muốn thu hút các FDI đầu tư vào các lĩnh vực ưu tiên và hiện đã có hơn 386.000 dự án đầu tư vào Việt Nam, chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, sản xuất, phân phối điện, khí đốt và bất động sản.
  • Để thu hút đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài, trong những năm qua Việt Nam đã thực hiện chính sách “trải thảm đỏ” kêu gọi thu hút đầu tư nước ngoài bằng nhiều chính sách, ưu đãi đầu tư, trong đó có chính sách ưu đãi về thuế. Theo đó, ưu đãi thuế suất (10% lên 15 năm); miễn, giảm thuế có thời hạn (tối đa 9 năm); cho phép chuyển lỗ (trong vòng 5 năm); miễn đánh thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài; hoàn thuế cho lợi nhuận tái đầu tư; cho phép được khấu hao nhanh…
  • Việt Nam đã tham gia Chương trình hành động chống xói mòn cơ sở thuế và chuyển lợi nhuận (BEPS) và đang cân nhắc tham gia vào đạo luật thuế tối thiểu.

Ảnh hưởng có lợi

  • Việt Nam có thể kiểm soát được các doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài an toàn hơn, tránh thất thu thuế khi những doanh nghiệp này trốn thuế tại các nước không bị truy thu thuế.
  • Đối với những dự án đang hoạt động tại Việt Nam, trong dài hạn buộc phải nâng thuế suất tối thiểu lên 15%, giúp tăng thuế và chúng ta sẽ thu hàng trăm nghìn tỷ đồng nếu bỏ ưu đãi. Đây cũng là cơ hội nâng cao hiệu quả đầu tư theo quy hoạch, định hướng phát triển, cân đối hài hoà đầu tư trong chuỗi giá trị toàn cầu.
  • Việc tham gia vào một tổ chức lớn với sự đồng thuận cao của các quốc gia cũng cho thấy Việt Nam là một quốc gia có trách nhiệm, sẵn sàng duy trì sự công bằng và tạo môi trường cạnh tranh bình đẵng trong kinh doanh.

Ảnh hưởng bất lợi

  • Điểm cần lưu ý là việc áp dụng thuế tối thiểu toàn cầu khiến chính sách ưu đãi đầu tư nước ngoài giảm hấp dẫn, ảnh hưởng nguồn đầu tư chất lượng cao, quy mô lớn, giảm vị thế cạnh tranh đầu tư và thương mại; ảnh hưởng chiến lược phát triển công nghiệp quốc gia thu hút doanh nghiệp quy mô lớn, trung tâm nghiên cứu phát triển công nghệ tiên tiến, công nghệ sạch; cuối cùng ảnh hưởng đến xuất khẩu và các cán cân thanh toán quốc tế, dự trữ ngoại hối.
  • Một điểm lưu ý nữa là, trong kỳ tính thuế, nếu mức thuế suất hiệu dụng (Effective Tax Rate – ETR) của một công ty con thấp hơn thuế suất tối thiểu được thỏa thuận trên toàn cầu thì công ty mẹ phải trả “thuế bổ sung” trên phần thu nhập tương ứng trong thu nhập của công ty con bị đánh thuế thấp hơn mức thuế tối thiểu toàn cầu cho quốc gia nơi đặt trụ sở (thường được gọi là quốc gia mẹ hoặc quốc gia cư trú).Rõ ràng đây là một điều kiện nhằm giúp các nước phát triển thu được nhiều thuế hơn là nước đang phát triển, vì trụ sở của các công ty đa quốc gia thì thường nằm ở các nước phát triển.
  • Ngoài ra, ở chừng mực nào đó, rất có thể có những nhà đầu tư nhỏ ăn theo chuỗi sản xuất kinh doanh của các công ty đa quốc gia mà sẽ phải chịu thuế suất thuế tối thiểu thì cũng sẽ bị liên đới.

5. Hành động

  • Thuế tối thiểu toàn cầu sẽ tạo ra áp lực mới, yêu cầu mới về cải cách mạnh mẽ môi trường đầu tư, kinh doanh. Do đó, Việt Nam sẽ phải thu hút đầu tư bằng môi trường kinh doanh thuận lợi; chi phí gánh nặng về thủ tục hành chính, tuân thủ pháp luật được giảm bớt, minh bạch hơn, nhanh hơn và ít rủi ro – môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn.
  • Các nước phát triển và các quy định ràng buộc của tổ chức sẽ buộc các nước đang phát triển phải tham gia vào hiệp định, việc Việt Nam không có những hành động ngay hoặc chậm trễ trong việc triển khai thuế tối thiểu toàn cầu, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội giành quyền đánh thuế. Ngoài ra, Việt Nam cũng có thể không thu được phần thuế bổ sung, nếu phát sinh, của các tập đoàn Việt Nam có đầu tư ra nước ngoài.
  • Thuế tối thiểu toàn cầu cũng sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả thu hút đầu tư nước ngoài của các chính sách ưu đãi thuế hiện tại của Việt Nam cho các tập đoàn đa quốc gia thuộc phạm vi áp dụng. Để khắc phục tác động của thuế suất tối thiểu toàn cầu sắp tới, Việt Nam cần đánh giá sớm và có thể áp dụng các biện pháp khuyến khích đầu tư bổ sung bao gồm: miễn thuế nhập khẩu, kéo dài thời gian miễn thuế đất và ưu đãi dựa trên chi phí, đặc biệt là chi phí nghiên cứu và phát triển….
  • Mặc dù, Chính phủ đang cân nhắc việc có áp dụng điều luật thuế tối thiểu toàn cầu hay không, nhưng bản chất xu hướng tất yếu là sẽ phải tham gia. Do đó, việc đánh giá sớm và đưa ra các giải pháp thuế thay thế phù hợp + cải thiện môi trường kinh doanh sẽ giúp tính cạnh tranh của Việt Nam ở mức cao.

Nguồn: Lão Trịnh – Mof – Vneconomy